Nợ khó đòi, tàu thôi... ra khơi
Ngày 12/1/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản yêu
cầu tạm dừng việc thực hiện dự án đánh bắt hải sản xa bờ; giao cho lãnh đạo các
bộ, ngành, địa phương có liên quan chỉ đạo, kiểm điểm, xử lý nghiêm khắc các tập
thể, cá nhân mắc sai phạm; khởi tố, điều tra những trường hợp có dấu hiệu hình
sự, tiếp tục thu hồi vốn.
Qua hơn 7 năm thực hiện, dự án đã ít kết quả, lại nhiều trì
trệ, sai phạm.
Quyết định này được dựa trên kết quả thanh tra, với
nhiều sai phạm được phát hiện, riêng sai phạm về kinh tế đã trên 110 tỷ
đồng.
Đánh bắt hải sản xa bờ là một dự án đầu tư lớn, xuất phát từ
yêu cầu phát triển kinh tế biển, hứa hẹn nhiều triển vọng và là một chủ trương
đúng của Chính phủ trên cơ sở Nghị quyết của Bộ chính trị. Năm 1997, Ban chỉ đạo
Nhà nước về chương trình đánh bắt hải sản xa bờ đã được thành lập.
Đến năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định giải thể ban
này, giao nhiệm vụ của ban cho Bộ thủy sản thực hiện. Việc thực hiện dự án tại
các tỉnh, thành phố do ban chỉ đạo địa phương tiến hành dưới sự chỉ đạo của Bộ
thủy sản.
Đến tháng 12/2003, đã có 1.080 dự án thành viên, đóng mới và
sửa chữa 1.382 tàu có công suất từ 90 CV trở lên, với tổng số vốn ưu đãi được
giải ngân là trên 1.345 tỷ đồng, do Tổng cục đầu tư phát triển (sau này là Quỹ
hỗ trợ phát triển) và Ngân hàng đầu tư - phát triển Việt Nam cho vay. Nhưng qua
hơn 7 năm thực hiện, dự án đã ít kết quả, lại nhiều trì trệ, sai phạm.
Từ gian lận thiết kế...
Theo quy chế quản lý và sử dụng vốn đầu tư ban hành kèm theo
Quyết định QĐ393/ TTg của Thủ tướng Chính phủ về triển khai dự án đánh bắt hải
sản xa bờ thì “Bộ thủy sản với chức năng quản lý Nhà nước chuyên ngành có nhiệm
vụ phê duyệt thiết kế và dự toán mẫu các loại tàu đánh cá để công bố cho ngư dân
tự lựa chọn, ký kết hợp đồng đóng tàu theo mẫu thiết kế được phê duyệt”.
Để thực hiện việc này, Bộ thủy sản đã ban hành đợt một 9 mẫu
tàu và giao cho Công ty tư vấn đầu tư và thiết kế thuộc Tổng công ty Thủy sản
Việt Nam làm đầu mối giúp lãnh đạo Bộ hướng dẫn cụ thể về thiết kế cho các chủ
đầu tư và các xí nghiệp đóng tàu.
Tiếp sau đó, Bộ thủy sản lại phê duyệt 45 mẫu tàu đánh cá xa
bờ, giao cho Công ty tư vấn đầu tư thiết kế và Công ty khảo sát thiết kế và tư
vấn đầu tư thuộc Tổng công ty hải sản Biển Đông thiết kế và tính phí thiết
kế.
Nhưng qua kiểm tra thực tế thì thấy các thiết kế tàu được lập
chỉ là thiết kế sơ bộ, không có thiết kế thi công; dự toán chỉ có bảng tổng hợp
chung các khoản chi phí, không tính chi tiết, cụ thể cho từng hạng mục, công
việc. Chỉ có 9 mẫu tàu là có bản thuyết minh, bản vẽ tổng thể.
Tuy cùng một mẫu tàu, nhưng thiết kế dự toán lại có sự khác
nhau về khối lượng, chủng loại, cơ cấu vật tư, gỗ, trang thiết bị kỹ thuật dẫn
tới khác nhau về giá thành, như ở Hợp tác xã Đại Thắng, thị xã Cửa Lò tỉnh Nghệ
An đóng tàu vỏ gỗ theo một mẫu, cùng kích cỡ, nhưng khối lượng gỗ, vật tư trang
thiết bị và đơn giá của mỗi con tàu trong cùng một thời điểm lại khác nhau,
khiến cho dự toán tàu bán buôn của hợp tác xã này chênh lệch 24,8 triệu đồng/
tàu.
Cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản của Bộ thuỷ sản được giao nhiệm
vụ phê duyệt thiết kế từng con tàu, nhưng trong thực tế việc phê duyệt này chỉ
mang tính hình thức, cốt để hợp thức hóa làm thủ tục giải ngân vay vốn. Do Cục
và các Chi cục địa phương thiếu trách nhiệm, buông lỏng việc kiểm tra, giám sát
đăng kiểm việc đóng mới tàu, sửa chữa tàu cũ, nên nhiều chủ dự án đã thông đồng
với cơ sở đóng tàu rút ngắn kích thước so với thiết kế được duyệt, không lắp máy
mới mà lắp máy cũ để tiền mua tàu thì ít, nhưng vẫn lấy được nhiều vốn theo dự
án.
Tình trạng phổ biến là Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản không
kiểm tra thực tế mà chỉ căn cứ vào hợp đồng đóng tàu, mua lưới, lắp đặt trang
thiết bị mà chủ dự án đã thông đồng kê gian, khai khống, rồi nghiệm thu xác
nhận, tạo kẽ hở cho mỗi chủ dự án hợp thức hóa được thủ tục để rút ra nhiều tỷ
đồng chi tiêu cho các mục đích khác không có liên quan gì với việc đóng tàu,
đánh cá
... Đến khai khống để được đầu tư.
Theo quy định của Chính phủ, thì việc đầu tư vốn trong dự án
đánh bắt hải sản xa bờ chủ yếu là dành cho các hợp tác xã và tổ hợp đánh cá, các
chủ dự án thành viên này phải có số vốn bằng 15% số vốn được vay. Nhưng vào
thời điểm triển khai dự án, số hợp tác xã và tổ hợp đánh cá ở nhiều tỉnh, thành
phố chưa có là bao, số dân vùng biển chuyên nghề, thạo việc đánh bắt hải sản,
nhất là xa bờ cũng đâu có nhiều.
Nhưng nhìn vào chương trình, kế hoạch đầu tư vốn thấy bở béo,
hấp dẫn quá, nên một số nơi vội vã lập các hợp tác xã, lôi kéo hay chỉ đơn thuần
là ghi tên cả những người không biết nghề đánh cá, hoặc ốm đau, già lão.
Qua kiểm tra 283 hợp tác xã được lựa chọn là chủ dự án tại 9
tỉnh, thành phố thì có 264 hợp tác xã vừa vội vã thành lập để xin xét duyệt dự
án. Xã viên góp vốn phần nhiều là chỉ trên danh nghĩa, nên phần lớn các chủ dự
án đều không có đủ số vốn tự có theo quy định. Việc lập các hợp tác xã theo cách
này chủ yếu là để hợp thức hóa xin vay vốn đầu tư.
Nhưng vay được rồi thì nhiều hợp tác xã lúng túng, sai lầm
trong việc sử dụng vốn vay vì xã viên phần nhiều đã bỏ đi không theo hợp tác xã,
còn lại chỉ là mấy vị cán bộ như chủ nhiệm, kế toán và một số người không thạo
về quản lý kinh tế cũng như sắm sửa tàu thuyền, ngư cụ. Đây chính là một trong
những nguyên nhân khiến cho việc triển khai dự án ngay từ đầu đã vấp váp, không
hiệu quả.
Đáng lẽ theo quy định, các sở thủy sản phải kiểm tra, thẩm
định, tham mưu cho UBND tỉnh xét duyệt các dự án thành viên, cân nhắc việc quyết
định có đầu tư vốn hay không, nhưng trong thực tế các sở đã không làm hoặc làm
kém việc này. Khi thẩm định và phê duyệt dự án, chẳng mấy cơ quan xét tới vốn tự
có, khả năng sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế, thời gian, khả năng thu hồi
vốn. Hầu hết các dự án đều do một số cán bộ Sở thủy sản, hoặc do đơn vị tư vấn
lập theo một khuôn mẫu có sẵn, sao chép giống nhau, chỉ có khác địa danh và tên
chủ dự án.
Có nơi như ở Thanh Hóa, việc lập dự án, viết báo cáo dự án đều
chỉ do một ông phó phòng quản lý nghề cá của Sở thủy sản làm theo mẫu có sẵn. 35
dự án ở Bình Định lập năm 1998 sao chép lại dự án lập năm 1997 nhưng vẫn được
hội đồng phê duyêt thông qua. Ở nhiều nơi, các biên bản họp thẩm định dự án
không có đủ chữ ký của các thành viên hội đồng thẩm định.
Trong 64 dự án ở Quảng Ngãi được thẩm định, có tới 18 dự án
không có đơn hoặc phiếu đăng ký của chủ dự án. Phần lớn hồ sơ dự án ở Cà Mau đều
không có giấy phép hành nghề, không có xác nhận của chính quyền địa phương,
không đăng ký thuyền trưởng, máy trưởng, nhưng vẫn được vay vốn.
Ở Quảng Ninh, cán bộ thẩm định đã tự khai tăng sản lượng đánh
bắt của một đôi tàu từ 450tấn/năm như chủ dự án báo cáo, lên 1.100tấn/năm để
tính doanh thu cho dự án có lãi. Nhưng cho đến nay, dự án này hoạt động kém hiệu
quả nên không trả được đồng nợ nào.
Phê duyệt, cấp vốn đều sai phạm.
Bộ thủy sản quy định mức thu phí thiết kế đối với tàu mới là 1%
giá bán, với tàu cũ, sửa chữa, chỉ thu dịch vụ công in, giấy tờ giao dịch. Nhưng
qua thanh tra thì thấy mỗi nơi tính phí thiết kế một kiểu, chênh lệch nhau khá
lớn. Như tỉnh Nam Định tính trên tổng số vốn cho vay. Tại các tỉnh Thái Bình,
Thanh Hóa,... lại tính trên giá khái toán của con tàu.
Nhưng nhiều con tàu có cùng mẫu do Công ty tư vấn đầu tư thiết
kế thiết kế và lập dự toán lại có giá khái toán khác nhau, nên mức thu thiết kế
phí tại mỗi tỉnh cũng khác nhau, Quảng Nam thu 8 triệu đồng/ tàu; Hải Phòng thu
6,5 triệu đồng/ tàu; Bình Định thu 6,28 triệu đồng/tàu; Quảng Ngãi thu 5 triệu
đồng/tàu.
Ngày 8/8/1998, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu không thu phí
thiết kế, nhưng từ thời điểm này ngược lên đến hết năm 1997, Công ty tư vấn đầu
tư thiết kế đã lập thiết kế được 352 tàu theo 12 mẫu khác nhau, tổng phí thiết
kế theo hợp đồng là gần 3,4 tỷ đồng, đã thực thu từ các chủ dự án là 1,68 tỷ
đồng và được Bộ Tài chính cấp bù 940 triệu đồng. Công ty này thu thiết kế phí
theo tỷ lệ 1,25% đối với 2 con tàu, 1,5% đối với 6 con tàu, 0,9% đối với 18 con
tàu, các con tàu còn lại thu 1%.Như vậy đối chiếu với quy định của Bộ thủy sản,
công ty đã thu vượt quy định 851 triệu đồng.Mặc dù việc phê duyệt thiết kế chỉ
là hình thức, nhưng mức thu phí phê duyệt thiết kế sơ bộ là khá cao, từ
400.000đ-500.000đ/thiết kế.
Sai phạm phổ biến qua thanh tra phát hiện được là nhiều chủ dự
án ngoài việc kê khống 15% vốn tự có, đã kê gian, khai khống tiền đóng tàu, tiền
mua lưới và ngư cụ, hợp thức hóa thủ tục thanh toán để rút đủ vốn vay, số tiền
sai phạm dạng này lên đến 18 tỷ đồng. Nhiều chủ dự án rút tiền về đã không nhập
quỹ, bỏ ngoài sổ sách để chi tiều trái nguyên tắc. Việc rút tiền mặt để chi tiêu
kiểu này sẽ khó thực hiện nếu như không có sự tiếp tay của các đơn vị cho vay
vốn.
Qua thanh tra, kiểm tra 991 tàu tại 26 tỉnh, thành phố, chiếm
71% tổng số tàu được đầu tư, với số vốn là trên 895 tỷ đồng, chiếm 66% số vốn ưu
đãi đã giải ngân, đã phát hiện sai phạm về kinh tế trên 110 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ
12% tổng giá trị được kiểm tra, trong đó sai phạm về tham ô, cố ý làm trái,
chiếm dụng, chiếm đoạt vốn đầu tư là 12 tỷ đồng.
Nguồn:VNECONOMY-bannhanong.vietnetnam.net (17/03/2006)
|