Một số mô hình nuôi thủy sản có hiệu quả kinh tế cao trong mùa nước nổi
Đề án “Phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá cho nhân dân trong mùa nước nổi” đã và đang phát triển
rất có hiệu quả ở Tỉnh ta, giá trị sản phẩm làm ra và hiệu quả kinh tế từ các mô
hình sản xuất mùa nước nổi năm sau, cao hơn năm trước. Từ một chủ trương đúng
đắn, hợp lòng dân của Lãnh đạo tỉnh nhà, cùng với sự cần cù sáng tạo trong lao
động sản xuất, nông dân An Giang đã làm nên một kỳ tích mới.
Để giúp người nông dân có sự cân nhắc chọn lựa mô hình sản xuất
thích hợp với điều kiện cụ thể của mình về cơ sở vật chất, về vốn đầu tư cũng
như hiệu quả trên một diện tích nuôi. Xin giới thiệu một số mô hình nuôi thủy
sản rất có hiệu quả trong mùa nước nổi, bà con nông dân tham khảo và tham gia
thực hiện:
1- Mô hình nuôi Ếch Thái Lan trong mùng
lưới:
Mùng lưới được thiết kế nằm trong ao, bên ngoài có thể thả một loài cá
như: Rô phi, điêu hồng, mè, hường… để sử dụng thức ăn dư thừa và phân của ếch.
Ước tính giá thành 2 mô hình nuôi ếch như sau:
Nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp:
a- Cơ sở tính toán:
Diện tích mùng lưới: 5 m x 10 m = 50 m2, mật độ thả: 100
con/m2
Sử dụng 100% thức ăn công nghiệp loại Cargill có độ đạm từ
28-30%.
Số lần cho ăn 3-4 lần/ngày, hệ số thức ăn 1.3, thời gian nuôi
3,5 tháng, tỉ lệ hao hụt 30 %, trọng lượng bình quân khi thu hoạch 300 g/con
Sản lượng ước đạt 1.050 kg, năng suất bình quân 21 kg/m2.
b- Chi phí sản xuất:
Chi phí ếch giống : 50 m2 x 100 con/m2 x 1.000 đ/con =
9.555.000 đ
Chi phí thức ăn: 1.050 kg x 1.3 x 7.000 đ = 500.000 đ
Chi phí vật tư (mùng lưới, bạt cao su, cây…) = 1.750.000 đ
Nhân công: 500.000 đ/tháng x 1 người x 3.5 tháng = 500.000
đ
Chi phí thuốc phòng trị bệnh =
Chi phí khác = 300.000 đ
Tổng chi: =
17.605.000đ
Ước giá thành ếch nuôi: 16.766 đồng/kg
Hạch toán kinh tế:
Với giá bán 25.000 đồng/kg
Doanh thu: 25.000 đồng/kg x 1.050 kg = 26.250.000 đồng
Lãi: 26.250.000 đ - 17.605.000 đ = 8.645.000 đồng
Hiệu quả trên 1 m2 nuôi: 172.900 đồng.
Hiệu quả trên vốn đầu tư: (8.645.000 đ / 17.605.000 đ) x 100% =
49%.
Nuôi sử dụng thức ăn tự chế (ốc bươu vàng, cá tạp) :
Ếch nuôi sử dụng thức ăn tự chế (ốc, cá tạp) nhận thấy ếch rất
ưa thích loại thức ăn này nên ăn mồi mạnh hơn cho ăn thức ăn công nghiệp. So
sánh cùng thời gian nuôi, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, tỷ lệ ếch bị bệnh cũng
ít hơn sử dụng thức ăn công nghiệp.
a- Cơ sở tính toán:
Diện tích mùng lưới: 5 m x 10 m = 50 m2, mật độ thả: 100
con/m2, sử dụng thức ăn tự chế: Cá tạp, ốc bươu vàng, số lần cho ăn 3 - 4
lần/ngày, hệ số thức ăn: 6.0, thời gian nuôi 3 tháng, tỉ lệ hao hụt: 30%, trọng
lượng bình quân khi thu hoạch: 300 g/con
Sản lượng ước đạt 1050 kg, năng suất bình quân 21 kg/m2.
b- Chi phí sản xuất
Chi phí ếch giống : 50 m2 x 100 con/m2 x 1.000 đ/con =
5.000.000 đ
Chi phí thức ăn: 1.050 kg x 6.0 x 1.500 đ = 9.450.000 đ
Chi phí vật tư (mùng lưới, bạt cao su, cây…) = 500.000 đ
Nhân công: 500.000 đ/tháng x 1 người x 3 tháng = 1.500.000
đ
Chi phí thuốc phòng trị bệnh = 1.000.000 đ
Chi phí khác = 300.000 đ
Tổng chi: =
16.850.000đ
Ước giá thành ếch nuôi: 16.047 đồng/kg
Hạch toán kinh
tế:
Với giá bán 25.000 đồng/kg
Doanh thu: 25.000 đồng/kg x 1.050 kg = 26.250.000 đồng
Lãi: 26.250.000 đ - 16.850.000 đ = 9.400.000 đồng
Hiệu quả trên 1 m2 nuôi: 188.000 đồng.
Hiệu quả trên vốn đầu tư: (9.400.000 đ / 16.850.000 đ) x 100% =
55,7%.
2- Mô hình nuôi lươn đồng trong bể lót cao
su:
Năm 2004 phong trào nuôi lươn phát triển khá mạnh ở một số địa phương
trong tỉnh, con giống thả nuôi là con giống đánh bắt từ tự nhiên thu gom từ các
địa phương trong và ngoài tỉnh, tập trung ở một số huyện chủ yếu sau:
- Nhiều nhất là ở huyện Châu Thành với 364 hộ nuôi, tương đương
18.850 m2 bể nuôi, tập trung nhiều nhất là xã Vĩnh Hanh 203 hộ, Cần Đăng 36 hộ,
Bình Hoà 31 hộ.
- Thành phố Long Xuyên: 50 hộ nuôi tương đương 2.000 m2, tập
trung nhiều nhất ở xã Mỹ Thới 31 hộ.
- Huyện Thoại Sơn: 50 hộ nuôi tương đương 1.000 m2, tập trung
nhiều nhất ở xã Phú Thuận 45 hộ.
Theo các cán bộ của Trạm Khuyến nông của 3 huyện trên, số hộ
đăng ký nuôi lươn trong năm 2005 tăng lên gấp đôi so với năm 2004. Do đó vấn đề
lươn giống trong năm nay sẽ rất khó khăn.
Ước tính giá thành của mô hình nuôi lươn
a- Cơ sở tính toán:
Diện tích bể: 4m x 10m = 40m2 , trọng lượng bình quân lươn thả
nuôi: 40-50 con/kg, giá lươn giống 20.000 đ/kg, mật độ thả 40 con/m2, sử dụng
thức ăn cá tạp giá bình quân 3000 đ/kg, thời gian nuôi 5 tháng, sử dụng nhân
công gia đình, tỉ lệ hao hụt 50%, trọng lượng bình quân khi thu hoạch
150g/con.
Sản lượng ước đạt 40 m2 x 40 con/m2 x 50% x 0,15 kg = 120
kg
Năng suất bình quân 3 kg /m2.
b- Chi phí sản xuất
Chi phí lươn giống : 40 kg x 20.000 đ/kg = 800.000 đ
Chi phí thức ăn: 3.000 đ x 4 kg/ngày x 150 ngày = 1.800.000
đ
Chi phí vật tư (bạt cao su, cây, công chở đất…) = 400.000 đ
Chi phí thuốc phòng trị bệnh = 200.000 đ
Chi phí khác = 100.000 đ
Tổng chi:
=3.300.000đ
Ước giá thành lươn nuôi:3.300.000 đ / 120 kg = 27.500
đồng/kg
Hạch toán kinh tế:
Với giá bán 50.000 đồng/kg
Doanh thu: 50.000 đồng/kg x 120 kg = 6.000.000 đồng
Lãi: 6.000.000 đ - 3.300.000 đ = 2.700.000 đồng
Hiệu quả trên 1 m2 nuôi: 2.700.000 đ / 40 = 67.500 đồng.
Hiệu quả trên vốn đầu tư: (2.700.000 đ / 3.300.000 đ) x 100% =
82 %.
3- Mô hình nuôi cá lóc trong mùng lưới:
Từ đầu năm đến nay giá cá lóc trên thị trường luôn đứng ở mức
cao từ 20.000 đ - 26.000 đồng/kg nên số hộ nuôi cá lóc tăng hơn cùng thời điểm
năm 2004. Theo kết quả điều tra thời điểm 01/4/2005, sản lượng cá lóc nuôi trong
toàn tỉnh là 6.911 tấn, tập trung nhiều ở các huyện như: Phú Tân 2.593 tấn, Chợ
Mới 812 tấn, Châu Đốc 742 tấn, An Phú 687 tấn, Thoại Sơn 616 tấn, Long Xuyên 529
tấn, Châu Phú 494 tấn,…Các hình thức nuôi chủ yếu là nuôi ao và nuôi vèo, cụ thể
như sau:
Nuôi ao có diện tích: 64,7 ha, sản lượng là 2.543 tấn, chiếm
36,8 %,
Nuôi vèo có diện tích: 9,758 ha, sản lượng là 2.721 tấn chiếm
39,4 %
Các hình thức nuôi khác như: Nuôi bè, nuôi chân ruộng 23,8 %
.
Ước tính giá thành của mô hình nuôi cá lóc trong mùng lưới:
a- Cơ sở tính toán:
Diện tích mùng: 3 m x 5 m x 1,5 m = 22,5 m3, trọng lượng bình
quân cá giống thả nuôi 300 - 400 con/kg, giá cá giống 400 đ/con, mật độ thả 80
con/m3, sử dụng thức ăn cá tạp giá bình quân 4000 đ/kg, thời gian nuôi 4,5
tháng, hệ số thức ăn 3.5, sử dụng nhân công gia đình, tỉ lệ hao hụt 20%, trọng
lượng bình quân khi thu hoạch 700 g/con.
Sản lượng ước đạt 22,5 m3 x 80 con/m3 x 80% x 0,7 kg = 1008
kg
Năng suất bình quân 44,8 kg /m3.
b- Chi phí sản xuất
Chi phí cá : 400 đ x 1.800 con = 720.000 đ
Chi phí thức ăn: 4.000 đ x 3.3 x 1.008kg = 14.112.000 đ
Chi phí vật tư (lưới, cây, …) = 300.000 đ
Chi phí thuốc phòng trị bệnh = 500.000 đ
Chi phí khác = 500.000 đ
Tổng chi: =
16.132.000đ
Ước giá thành cá lóc nuôi:16.132.000 đ / 1.008 kg = 16.000
đồng/kg
Hạch toán kinh tế:
Với giá bán 20.000 đồng/kg
Doanh thu: 20.000 đồng/kg x 1.008 kg = 20.160.000 đồng
Lợi nhuận: 20.160.000 đ - 16.13200.000 đ = 4.028.000 đồng
Hiệu quả trên 1 m3 nuôi: 4.028.000 đ / 22,5 = 179.000 đồng.
Hiệu quả trên vốn đầu tư: (4.028.000 đ / 16.132.000 đ) x 100% =
25 %.
Theo Trần Phùng Hoàng Tuấn, TT NC&SX giống thủy sản
An Giang |