Sử dụng chế phẩm sinh học trong cây trồng nông nghiệp vì lợi ích lâu dài.
Viện Lúa ĐBSCL đã nghiên cứu thành công một số chế phẩm
sinh học có hiệu quả cao trong phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, tạo nguồn phân
hữu cơ cho đất… giúp nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí sản xuất. Đây là một
trong những giải pháp giúp hạn chế sử dụng thuốc hóa học trên đồng ruộng, đảm
bảo an toàn cho môi trường và người sử dụng; phát triển nền nông nghiệp bền
vững.
Từ những chế phẩm nổi tiếng.
Nói đến chế phẩm sinh học Ometar và Biovip do Viện Lúa ĐBSCL
nghiên cứu, sản xuất, đa số bà con nông dân đã sử dụng đều nhận xét 2 chế phẩm
này có hiệu quả cao trong phòng trừ một số sâu hại cây trồng như: rầy nâu, rầy
xanh, bọ xít hại lúa; rầy xanh và rầy mềm hại cây bông vải. Ometar còn có hiệu
quả rất cao khi dùng để trừ bọ cánh cứng hại dừa. Từ năm 2003 đến năm 2005, Sở
Khoa học- Công nghệ tỉnh Trà Vinh hợp tác với Viện Lúa ĐBSCL thực hiện đề tài:
“Ứng dụng chế phẩm trừ sâu sinh học trong thâm canh tổng hợp lúa chất lượng cao
tại tỉnh Trà Vinh”. Kết quả các mô hình cho thấy khi sử dụng Ometar cùng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật khác trong thâm canh tổng hợp lúa chất lượng cao đã
mang lại hiệu quả kinh tế rất cao. Cụ thể, lãi thuần từ các mô hình này cao hơn
các ruộng đối chứng của nông dân từ 1,2 triệu đồng- 1,7 triệu đồng/ha trong vụ
đông xuân và từ 850.000 đồng– 1,2 triệu đồng/ha trong vụ hè thu.
Chế phẩm sinh học Ometar và Biovip được
sản xuất từ 2 chủng: nấm xanh, Metarhizium anisopliae được phân lập từ con bọ
xít hôi hại lúa và nấm trắng, Beauveria bassiana được phân lập từ con rầy nâu
hại lúa. Năm 2002, hai chế phẩm sinh học này được Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật và cho phép ứng dụng rộng rãi trong sản
xuất nông nghiệp. Tiến sĩ Nguyễn Thị Lộc, Trưởng Bộ môn Sinh thái Côn trùng và
Phòng trừ Sinh học, cho biết:“Các loại thuốc sinh học sản xuất từ vi khuẩn và
virus không có hiệu lực đối với các côn trùng chích hút như rầy nâu, bọ xít hại
lúa. Vì vậy, chúng tôi đã nghiên cứu, phân lập, tuyển chọn và sản xuất ra 2 loại
chế phẩm vi nấm để phòng trừ các loài côn trùng chích hút này”. Ometar và Biovip
có hiệu lực diệt rầy nâu từ 65-85%, Ometar có hiệu lực trừ bọ xít hôi hại lúa từ
81-87,5%. Viện Lúa ĐBSCL đã hợp tác với một số tỉnh như Tiền Giang, Trà Vinh,
Đồng Tháp, Hậu Giang… để xây dựng các mô hình sử dụng chế phẩm trừ sâu sinh học
trên lúa, cây ăn trái, dừa… và đạt hiệu quả rất tốt. Đến nay, 2 chế phẩm này
được sử dụng cho trên 1.500 ha lúa, dừa, cây ăn trái… ở ĐBSCL và Đông Nam bộ.
Đến những chế phẩm đầy hứa hẹn.
Nghiên cứu dùng vi khuẩn đối kháng, nấm đối kháng với ký sinh
gây bệnh, tạo chế phẩm sinh học phòng trừ các bệnh hại cây trồng có nguồn gốc từ
đất như lúa, cây trồng cạn là một trong những nghiên cứu chủ yếu của Bộ môn Bệnh
cây, Viện Lúa ĐBSCL. Tiến sĩ Phạm Văn Dư, Trưởng Bộ môn Bệnh cây, cho biết: “Chế
phẩm vi khuẩn đối kháng đã qua quá trình thử nghiệm từ năm 1997 đến nay. Phần
nghiên cứu và phân lập đã thử nghiệm hoàn chỉnh. Hiện nay, bộ môn đang hợp tác
với tỉnh Hậu Giang thực hiện dự án: Nghiên cứu và sử dụng vi sinh vật đối kháng
phòng trừ bệnh khô vằn hại lúa ở tỉnh Hậu Giang”. Theo kế hoạch dự án, năm 2006,
bộ môn tiến hành thu thập vi sinh vật; năm 2007 sẽ triển khai mô hình. Trước
mắt, bộ môn sẽ thu thập các vi sinh vật đối kháng ở từng vùng sinh thái khác
nhau để nghiên cứu tạo ra chế phẩm sử dụng thích hợp cho từng địa phương có nhu
cầu. Sau đó, sẽ chọn ra những vi khuẩn đối kháng mạnh và phổ tác dụng rộng trên
nhiều vi sinh vật gây hại để sản xuất chế phẩm sinh học dùng chung cho các vùng
sinh thái. Dùng vi khuẩn đối kháng tạo chế phẩm sinh học phòng trừ các bệnh hại
cây trồng có nguồn gốc từ đất sẽ giúp bổ sung nguồn vi sinh vật có ích, lập lại
sự cân bằng sinh thái trong tự nhiên và khống chế vi sinh vật gây bệnh.
Trong những vùng thâm canh lúa của khu vực ĐBSCL, rơm rạ sau
thu hoạch là nguồn hữu cơ vô tận. Tuy nhiên, rơm rạ để tự nhiên thì cần thời
gian phân hủy rất lâu. Do đó, nông dân thường đốt bỏ cho nhanh. Khi rơm rạ bị
đốt bỏ với số lượng lớn sẽ thải ra nhiều khí độc và bụi tro dẫn đến ô nhiễm môi
trường và góp phần gây nên hiệu ứng nhà kính. Trước thực trạng đó, Tiến sĩ Lưu
Hồng Mẫn, Trưởng bộ môn Vi sinh vật, cùng các cộng sự ở Viện Lúa ĐBSCL đã khai
thác nấm Trichoderma, là nguồn vi sinh vật có khả năng phân hủy rơm rạ nhanh,
hạn chế được sự phát triển của nấm bệnh khô vằn lưu tồn trong rơm rạ, để điều
chế thành chế phẩm sinh học phân hủy rơm rạ, tạo nguồn phân hữu cơ cho đất.
Để xác định ảnh hưởng dài hạn của phân hữu cơ từ rơm rạ đối với
năng suất lúa và độ phì của đất canh tác lúa, tiến sĩ Lưu Hồng Mẫn và các cộng
sự đã tiến hành nhiều nghiên cứu tại Viện Lúa ĐBSCL, đồng thời phối hợp thực
hiện với Trung tâm giống cây trồng tỉnh Sóc Trăng và Trại giống Bình Đức, tỉnh
An Giang. Kết quả nghiên cứu sau các vụ hè thu, đông xuân từ năm 2000 đến 2005
cho thấy khi bón kết hợp phân hữu cơ từ rơm rạ với phân hóa học thì năng suất
không khác biệt so với bón hoàn toàn phân hóa học mà lại tiết kiệm được nhiều
chi phí. Nếu sử dụng 10kg chế phẩm cho 1 ha rơm rạ sau thu hoạch thì trong
khoảng thời gian 4 tuần sẽ tạo được khoảng 6 tấn phân hữu cơ tại chỗ. Khi bón
toàn bộ số phân hữu cơ này ngay vụ đầu tiên sẽ tiết kiệm được 40% lượng phân
NPK/ha. Nếu bón liên tục khoảng 10 vụ lúa có thể tiết kiệm 80% lượng phân
NPK/ha. Như vậy, sử dụng phân hữu cơ từ rơm rạ không những sản lượng lúa vẫn
được đảm bảo mà còn giảm số lượng phân hóa học, giúp hạn chế ô nhiễm môi trường,
dần trả lại độ phì cho đất thông qua việc cung cấp chất mùn hữu cơ trong quá
trình sản xuất lúa.
Chế phẩm vi sinh vật phân hủy rơm được nghiên cứu và sản xuất
thành 2 dạng: dạng xử lý trực tiếp vào rơm và dạng hòa tan trong nước tưới hoặc
phun trực tiếp vào rơm. Thời gian để chế phẩm sinh học phân hủy rơm rạ là 5-6
tuần sau khi xử lý. Rơm rạ xử lý ở các thời điểm khác nhau khi được bón trả lại
cho vụ mùa không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cây lúa. Đề tài nghiên cứu chế
phẩm sinh học phân hủy rơm rạ đã đạt giải Nhì trong Hội thi “Sáng tạo kỹ thuật
TP Cần Thơ 2004-2005”. Hội đồng chấm thi đánh giá đây là đề tài mới, khả năng
ứng dụng cao, có hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường. Tiến sĩ Lưu Hồng Mẫn cho
biết: “Hiện nay, đơn vị đang đăng ký dự án tìm nguồn tài trợ để triển khai rộng
rãi mô hình sử dụng chế phẩm sinh học phân hủy rơm rạ ở một số tỉnh ĐBSCL”.
Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm sinh học trong sản xuất nông
nghiệp thể hiện rất rõ. Tuy nhiên, nông dân thường lạm dụng thuốc trừ sâu và
phân hóa học trong trồng trọt. Để khuyến khích nông dân sử dụng chế phẩm sinh
học thì ngoài kết quả nghiên cứu của nhà khoa học, cần phải có sự đầu tư về kinh
phí, thời gian... Những chính sách hợp lý và sự phối hợp đồng bộ của địa phương
cùng các ban, ngành có liên quan sẽ tác động dần dần, thay đổi tập quán canh tác
của nông dân, góp phần đưa ngành nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững.
Nguồn:CTOL-bannhanong.vietnetnam.net (6/3/2006)
|