Tìm kiếm thông tin:
  Chuyên đề Bạn nhà nông
Nuôi
Trồng
Giống
Vật tư
Thiết bị - Công cụ
  Nhà nông tôn vinh
DNghiệp thân thiện
SPhẩm ưa chuộng
Nông dân thành đạt
  Trao đổi kinh nghiệm
Kinh nghiệm SX
Hỏi & đáp
  Danh bạ Bạn nhà nông
Cơ quan - Ban nghành
Hội - Hiệp hội
DN Sản xuất
DN Chế biến
DN D.Vụ-Thương mại
Trang trại
  Giới thiệu Bạn nhà nông
Website
Cẩm nang
Hồ sơ
Liên hệ


 Giống

Phát triển cây điều bền vững .

Những năm đầu thế kỷ này, nhất là năm 2005, sản xuất và chế biến điều ở nước ta đã thể hiện rõ nét sự phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững. Kim ngạch xuất khẩu điều đứng thứ tư (sau gạo, cà-phê, cao-su) và đứng thứ hai về thị phần trên thế giới (sau Ấn Ðộ). Cây điều trở thành cây làm giàu cho hàng triệu nông dân ở một số địa phương.

Thời cơ mới - thành tựu mới.

Trong số những cây công nghiệp dài ngày đứng chân trên các vùng, miền sinh thái ở nước ta, cây điều có ưu thế "trời cho"; vừa là cây "dễ tính", ít kén đất, vừa có khả năng chịu hạn cao, thích nghi trên diện rộng. Bởi thế, với các loại đất nghèo dinh dưỡng, đất trống, đồi trọc, đất pha cát ven biển... nhiều cây khác không chịu nổi, cây điều vẫn trụ vững, ra hoa, kết trái, cho thu hoạch. Mặt khác, giá sản phẩm, mức tiêu thụ và thị trường xuất khẩu điều trên thế giới, nhất là thị trường ở các nước phát triển ngày càng cao và mở rộng. Ðây là thời cơ thuận lợi phát triển sản xuất và chế biến điều của nước ta. Ðể đáp ứng dần nhu cầu của thị trường, đồng thời phát huy lợi thế của cây điều, nghề sản xuất, kinh doanh điều, ngày 7-5-1999, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 120/1999/QÐ-TTg phê duyệt đề án phát triển sản xuất, kinh doanh điều đến năm 2010 với các mục tiêu khá cụ thể. Quyết định đã tạo cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch các vùng điều tập trung, chuyên canh, quy mô diện tích lớn. Các cơ sở sản xuất bao gồm: các cơ sở chế biến công nghiệp sau thu hoạch và các chủ vườn điều được "ưu đãi, hưởng lợi" trong quá trình đầu tư phát triển. Trải qua sáu năm thực hiện đề án nêu trên, các vườn điều chuyên canh, thâm canh và chế biến điều có bước chuyển biến mạnh mẽ, phát triển toàn diện trên các lĩnh vực. Kết thúc năm 2005 vừa qua, các cơ sở sản xuất điều đã có bước tăng tốc vượt trội, đem lại những thành tựu cao nhất từ trước đến nay, tạo ấn tượng tốt đẹp trong dư luận xã hội. Ðó là: tổng diện tích điều đã tăng lên 450 nghìn ha (trong đó khoảng 1/3 là diện tích điều cao sản), tăng 1,8 lần; năng suất bình quân đạt gần bằng năm 2004, khoảng 1,1 tấn/ha, tăng 61,3%; tổng sản lượng điều thô hơn 400 nghìn tấn, tăng ba lần và kim ngạch xuất khẩu điều đạt gần nửa tỷ USD, tăng năm lần so năm 1999.

Sản phẩm của một số doanh nghiệp trong ngành đã được cấp giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO, GMP, HACCP nên hàng hóa làm ra đến đâu, được tiêu thụ hết đến đó và bán được giá. Kết quả sản xuất, kinh doanh của ngành điều năm vừa qua đã góp phần quyết định hoàn thành vượt mức kế hoạch nhiệm kỳ 5 năm 2001-2005. Ðặc biệt, nhiều chỉ tiêu đã đạt hoặc vượt mục tiêu của đề án đến năm 2010. Tổng sản lượng điều nhân hai năm 2004 và 2005 giữ mức ổn định khoảng 104-105 nghìn tấn; tổng kim ngạch điều xuất khẩu vượt khoảng 100% so mục tiêu đến năm 2005 và vượt 11% so mục tiêu đến năm 2010. Sản phẩm điều nước ta không chỉ có mặt ở những thị trường truyền thống, dễ tính, đã vươn tới thị trường các nước phát triển như Mỹ, Ðông - Tây Âu, Nga, Nhật Bản và khu vực ASEAN. Sản xuất, kinh doanh điều trở thành nghề mới, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu lao động nông thôn các tỉnh ven biển miền trung, Ðông Nam Bộ và Tây Nguyên. Cây điều từ vị thế là cây xóa đói, giảm nghèo, vươn lên thành cây làm giàu, nhất là đối với vùng điều cao sản tập trung với diện tích lớn.

Nguyên nhân phát triển và hạn chế.

Trước hết là sự đóng góp tích cực của địa phương, các cơ quan khoa học trong việc vừa tiến hành nhập nội một số giống điều mới từ Thái-lan, Ô-xtrây-li-a, vừa điều tra, sưu tập, chọn lọc cây điều đầu dòng phục vụ cho công tác nghiên cứu, tạo giống và chuyển giao kỹ thuật canh tác đến nông dân. Các vườn điều cũ, vùng điều trồng mới được cải tạo và trồng bằng giống có năng suất cao, chất lượng tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn các hộ nông dân tập trung vốn đầu tư trồng và thâm canh tăng năng suất điều.

Thứ hai, thực hiện đề án phát triển điều đến năm 2005 và 2010, các tỉnh đã hoàn thành tốt việc rà soát quy hoạch phát triển điều, dành ngân sách hỗ trợ đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ, hỗ trợ đưa giống mới vào sản xuất và hỗ trợ mở rộng diện tích điều cao sản. Các doanh nghiệp đã đầu tư hàng tỷ đồng cho phát triển vùng nguyên liệu, hỗ trợ giống cho nông dân. Nhờ đó, đến nay trong số hơn 400 nghìn ha điều cho thu hoạch, có khoảng 130 nghìn ha điều cao sản, năng suất đạt 2-2,5 tấn, cá biệt có vùng đạt gần ba tấn/ha, tăng hơn năm lần so với giống điều cũ.

Thứ ba, đầu tư nâng cấp các cơ sở công nghiệp chế biến; hệ thống cơ sở chế biến có bước phát triển nhanh, đáp ứng yêu cầu thị trường. Ðến nay, cả nước có khoảng 100 cơ sở chế biến, với tổng công suất hơn 400 nghìn tấn điều thô/năm, tăng 80,2% so với năm 1999. Trong hai năm gần đây, bình quân mỗi năm toàn ngành đã chế biến hơn 400 nghìn tấn điều thô. Các cơ sở chế biến điều áp dụng công nghệ Việt Nam. Máy móc thiết bị được sản xuất trong nước với giá rẻ, dễ thao tác, phù hợp trình độ người lao động, thời gian thu hồi vốn nhanh. Một số đơn vị được cấp giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO, GMP, HACCP. Nhờ đó, mặc dù ra đời và phát triển muộn so với các ngành hàng nông sản khác, nhưng sản xuất, kinh doanh điều đã nhanh chóng mở rộng được thị trường.

Thứ tư, Hiệp hội cây điều Việt Nam đã phát huy vai trò của mình trong việc phối hợp hỗ trợ và khuyến cáo các hội viên tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm lợi ích cho nông dân trồng nguyên liệu, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu.

Nhìn tổng thể, bên cạnh những thành tựu đạt được, sản xuất, kinh doanh điều còn có những hạn chế tồn tại chậm khắc phục. Tuy năng suất và chất lượng điều đạt vượt mục tiêu đề án giai đoạn 2005, nhưng còn thấp so với mức năng suất bình quân trên thế giới (hai tấn/ha). Hiện nay, cả nước vẫn còn 2/3 diện tích vườn điều là giống cũ, còn quảng canh, chưa được cải tạo; việc đầu tư để tăng nhanh năng suất trong giai đoạn tới đang là một thách thức lớn. Tốc độ phát triển cơ sở chế biến nhanh, nhưng chưa cân đối, chưa thật sự gắn bó với vùng nguyên liệu. Trình độ công nghệ chế biến chưa cao, lao động thủ công còn nhiều, năng suất thấp, giá thành chế biến cao, số nhà máy chế biến đạt tiêu chuẩn quản lý theo hệ thống ISO, GMP, HACCP còn ít. Một số doanh nghiệp chưa quan tâm việc xây dựng, củng cố thương hiệu, làm giảm uy tín mặt hàng điều Việt Nam trên thị trường quốc tế. Sự quan tâm của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với quá trình đầu tư phát triển còn hạn chế. Một số cơ chế, chính sách quy định trong Quyết định 120 của Thủ tướng Chính phủ chưa được thực hiện có kết quả. Hầu hết những người trồng điều trên các vùng đất trống, đồi trọc, vùng phòng hộ chưa được sự hỗ trợ.

Ðó là những tồn tại và thách thức đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương có giải pháp giúp người sản xuất điều khắc phục khó khăn, khai thác tốt hơn lợi thế, để cây điều phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững, tham gia hội nhập kinh tế thế giới.


Nguồn:Báo Nhân Dân -bannhanong.vietnetnam.net (11/02/2006)

 

 


° Các tin khác
• Nhân mô cây Hoàng Liên gai, tạo nguồn dược thảo để sản xuất thuốc.
• Công nghệ mới sản xuất bò sữa cao sản tại VN.
• Báo động nạn săn lùng, lạm thác cua biển giống ở Trà Vinh!
• Việt Nam:Đứng nhóm đầu ASEAN về công nghệ sinh học nông nghiệp vào năm 2020.
• Bình tuyển, xác nhận giống cà phê chất lượng cao cho Tây Nguyên.
• Kiên Giang: phát hiện giống địa lan quí tại vườn quốc gia U Minh Thượng.
• Chọn giống gà sau dịch.
• Trà Vinh: Cung cấp hơn 200 triệu con cá giống.
• giống tầm mới nhập
• Tiền Giang:Xác nhận giống giống đầu dòng cam mật không hạt.
• Thái Bình:Giống khoai tây mới năng suất 17 tấn/ha.
• Nuôi gà giống Ai Cập kháng dịch bệnh tốt,hiệu quả cao.
• Công nghệ gien tạo ra gạo giàu vi chất dinh dưỡng.
• Ươm thành công giống cá nước lạnh Bắc Âu tại VN
• Các bộ giống lúa tốt, thích hợp cho từng thời vụ
• Giống Lạc
• Cuộc cách mạng giống bông ở Đông Nam bộ
• Triển vọng của giống tằm TN12
• Hoa Địa Lan (Cymbidium spp)
• Hoa Thu Hải Đường (Begonia spp)
• Một số giống rau quả khác
• Hoa Lys
• Hoa hồng
• Hoa Glayơn
• Hoa lan
• Hoa Lily (Lilium spp)
• Hoa Hồng Môn (Anthurium spp)
• Nhân giống thành công một loài cá lăng hiếm
• Một số giống dâu tây mới
• Một số giống ngô lai cho vụ xuân 2005

 

Trang web được thiết kế và lưu trữ tại VietnamNetweb