Việt Nam:Đứng nhóm đầu ASEAN về công nghệ sinh học nông nghiệp vào năm 2020.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình
trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp
và phát triển nông thôn đến năm 2020” với mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp
tiên tiến vào năm 2020 ở Việt Nam.Chính phủ sẽ tiếp tục đầu tư nâng cấp và mở
rộng mạng lưới các phòng thí nghiệm thông thường ứng dụng công nghệ sinh học
nông nghiệp.
Trong 10 năm tới (giai đoạn 2006 - 2015), Chính phủ sẽ dành
khoảng 1.000 tỷ đồng (bình quân mỗi năm khoảng 100 tỷ đồng) chi cho việc thực
hiện các nhiệm vụ về nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ, sản xuất thử các sản phẩm của công nghệ sinh học nông
nghiệp; hỗ trợ các dự án sản xuất các sản phẩm, hàng hoá chủ lực ở quy mô công
nghiệp...
Mục tiêu tổng quát của chương trình này là tạo ra các giống cây trồng,
vật nuôi, chủng vi sinh vật, các chế phẩm công nghệ sinh học nông nghiệp mới có
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao phục vụ tốt nhu cầu chuyển đổi cơ
cấu kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá, tăng nhanh tỷ lệ nông, lâm, thuỷ
sản chế biến phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Trong giai đoạn 2006 – 2010, các nhà khoa học Việt Nam từng
bước làm chủ được một số công nghệ sinh học hiện đại và ứng dụng có hiệu quả vào
sản xuất, phù hợp với điều kiện cụ thể của ngành nông nghiệp Việt Nam. Chọn tạo
được một số giống cây trồng, vật nuôi bằng kỹ thuật sinh học phân tử và áp dụng
vào sản xuất một số dòng cây trồng biến đổi gien trong phạm vi phòng thí nghiệm
và thử nghiệm trên đồng ruộng.
Đến năm 2010, sẽ có khoảng 5 giống lúa thuần, 3 giống lúa lai,
2 giống ngô lai cùng một số giống cây biến đổi gien như: bông, ngô, đậu tương
được đưa vào sản xuất. Công nghiệp vi nhân giống được triển khai và phát triển
trên quy mô toàn quốc để sản xuất thử sản phẩm và sản xuất ở quy mô công nghiệp
đáp ứng tốt nhu cầu về giống cây trồng chất lượng cao, sạch bệnh.
Các nhà khoa học sẽ bắt tay vào nghiên cứu sản xuất vác xin
phòng bệnh cho vật nuôi và phấn đấu đáp ứng được nhu cầu cơ bản về vác xin cho
vật nuôi vào năm 2015. Các chế phẩm vi sinh vật, các chế phẩm bảo vệ thực vật sử
dụng để kiểm soát 10 loại dịch hại quan trọng được nghiên cứu ứng dụng, sản xuất
thử và sản xuất ở quy mô công nghiệp.
Trong giai đoạn 2006 – 2010, đội ngũ cán bộ công nghệ sinh học
nông nghiệp sẽ được đào tạo cơ bản, chuyên sâu, có trình độ cao có khả năng tiếp
cận và sử dụng thành thạo hệ thống các phòng thí nghiệm trọng điểm, hiện đại. Số
cán bộ khoa học được đào tạo vào khoảng 800-1.200 người trong đó có 60 - 80 tiến
sĩ, 200 - 250 thạc sĩ...
Bên cạnh đó, Chính phủ sẽ tiếp tục đầu tư nâng cấp và mở rộng
mạng lưới các phòng thí nghiệm thông thường ứng dụng công nghệ sinh học nông
nghiệp bao gồm: phòng thí nghiệm trọng điểm về công nghệ tế bào động vật; công
nghệ tế bào thực vật; phòng thí nghiệm trọng điểm về công nghệ gien dành cho khu
vực phía Nam. Trên cơ sở các phòng thí nghiệm trọng điểm này, thành lập và phát
triển các trung tâm xuất sắc về công nghệ sinh học nông nghiệp.
Sau khi đã tạo bước chuyển biến cơ bản về cơ sở vật chất, đội
ngũ cán bộ khoa học, trong giai đoạn 2011 – 2015, các nhà khoa học nông nghiệp
Việt Nam tập trung nghiên cứu công nghệ gien, đồng thời tiếp cận các khoa học
mới như: hệ gien học, tin sinh học, protein học, biến dưỡng học, công nghệ nano
trong công nghệ sinh học nông nghiệp; đưa công nghệ sinh học nông nghiệp nước ta
đạt trình độ khá trong khu vực.
Một số giống cây trồng biến đổi gien vào sản xuất; bước đầu
ứng dụng thành công nhân bản vô tính ở động vật. Một thị trường về công nghiệp
sinh học nông nghiệp sẽ được hình thành để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ các sản phẩm, hàng hoá chủ lực của công nghệ sinh học nông nghiệp phục vụ tốt
nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Mục tiêu trong giai đoạn này, công nghệ sinh học
nông nghiệp đóng góp từ 20 đến 30% tổng số đóng góp của khoa học và công nghệ
vào sự gia tăng giá trị của ngành nông nghiệp.
Đến năm 2020, ngành công nghệ sinh học nông nghiệp nước ta đạt
trình độ của nhóm các nước hàng đầu trong khối ASEAN và ở một số lĩnh vực đạt
trình độ tiên tiến của thế giới.
Khi đó, diện tích trồng trọt các giống cây trồng mới tạo ra
bằng các kỹ thuật của công nghệ sinh học sẽ chiếm trên 70%, trong đó diện tích
trồng trọt các giống cây trồng biến đổi gien chiếm 30 - 50%; trên 70% nhu cầu về
giống cây sạch bệnh được cung cấp từ công nghiệp vi nhân giống; trên 80% diện
tích trồng rau, cây ăn quả sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật sinh học;
đáp ứng được cơ bản nhu cầu vác xin cho vật nuôi. Công nghệ sinh học nông nghiệp
đóng góp trên 50% tổng số đóng góp của khoa học và công nghệ vào sự gia tăng giá
trị của ngành nông nghiệp
Nguồn:VnExpres-bannhanong.vietnetnam.net(9/2/2006)
|