Đầu tư 78,5 tỷ đồng xây hệ thống thủy lợi để phát triển thủy sản Bến Tre.
Tỉnh Bến Tre xác định thủy sản là mũi nhọn
kinh tế số một của địa phương, nên khi xây dựng chương trình phát triển xuất
khẩu giai đoạn 2001- 2005, với mục tiêu phấn đấu đạt 500 triệu USD, ngành thủy
sản được giao nhiệm vụ nặng nề, phải "gánh" tới 65% chỉ tiêu. Dù đã có nhiều cố
gắng nhưng ngành thủy sản cũng chỉ đạt 47,4% chỉ tiêu được giao và những khó
khăn hiện nay vẫn còn...
Bộ trưởng Bộ Thủy sản vừa ký quyết định đầu tư 78,5 tỷ đồng
xây dựng hệ thống thủy lợi cấp nước ngọt từ hồ chứa Ba Lai phục vụ nuôi trồng
thủy sản huyện Bình Đại tỉnh bến Tre, trong đó 70 tỷ đồng là nguồn vốn ngân
sách, còn lại hơn 8,3 tỷ đồng là nguồn vốn địa phương và vốn tự huy động.
Dự án do Sở Thủy sản tỉnh Bến Tre làm chủ đầu tư, được thực
hiện từ năm 2006 đến 2009, với mục tiêu đáp ứng các điều kiện để nuôi tôm sú
thâm canh vụ chính, đảm bảo đúng lịch thời vụ, giảm áp lực thả giống và áp lực
về con giống cung cấp, hạn chế các rủi ro dịch bệnh, bảo vệ môi trường nuôi theo
hướng phát triển ổn định và bền vững. Dự án còn nhằm duy trì năng suất tôm nuôi,
tiếp tục tăng trưởng kinh tế cho các hộ dân trong khu vực dự án, ổn định việc
làm cho nhân dân vùng nuôi.
Với số tiền đầu tư trên, dự án sẽ xây dựng trạm bơm nước, hệ
thống đường ống chuyển tải và phân phối nước, nhà quản lý, nhà để máy phát điện,
hệ thống cầu đỡ đường ống chuyển tải chính...Đây là một trong nhiều kênh vốn đầu
tư cho ngành thủy sản Bến Tre giai đọan 2006-2010.
Tỉnh Bến Tre xác định thủy sản là mũi nhọn kinh tế số một
của địa phương, nên khi xây dựng chương trình phát triển xuất khẩu giai đoạn
2001- 2005, với mục tiêu phấn đấu đạt 500 triệu USD, ngành thủy sản được giao
nhiệm vụ nặng nề, phải "gánh" tới 65% chỉ tiêu. Dù đã có nhiều cố gắng nhưng
ngành thủy sản cũng chỉ đạt 47,4% chỉ tiêu được giao và những khó khăn hiện nay
vẫn còn...
Tại thời điểm xây dựng chương trình, Bến Tre có 5 nhà máy chế
biến thủy sản, công suất 18 ngàn tấn/năm và một nhà máy đang xây dựng, chuẩn bị
đưa vào hoạt động cuối năm 2003. Đó là nhà máy chế biến thủy sản Ba Lai (Châu
Thành), tổng vốn đầu tư tới 67 tỉ đồng, trang bị hiện đại, công suất 6.000
tấn/năm, được xem là “quả đấm chủ lực” đem ngoại tệ về cho tỉnh. Tuy nhiên, do
thiếu vốn, mãi đến tháng 6/2004, nhà máy mới hoàn thành đưa vào hoạt động. Trong
thời điểm xảy ra vụ Mỹ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá tôm vào thị
trường nước nầy, nhà máy chế biến thủy sản Ba Lai không bị Mỹ đưa vào danh sách.
Do đó, việc xuất khẩu tôm qua thị trường Mỹ bị đánh thuế rất cao, bắt buộc ban
giám đốc nhà máy phải xuất ủy thác và đang chuẩn bị kiện Mỹ. Một khó khăn nữa
của nhà máy chế biến thủy sản Ba Lai và của nhiều nhà máy khác, là thiếu vốn lưu
động. Đến mùa thu hoạch tôm sú, chỉ riêng nhà máy chế biến thủy sản Ba Lai, cần
khoảng 1.000 tỉ đồng mua tôm tạm trữ, nhưng chỉ được ngân hàng cho vay theo định
mức. Với tổng công suất chế biến của toàn ngành thủy sản trên 24 ngàn tấn/năm
nhưng chưa năm nào hoạt động hết công suất. Năm 2004, xuất khẩu 10.755 tấn thủy
sản đông lạnh các loại, trong đó mặt hàng tôm sú, có giá trị cao, chỉ chiếm 37%,
trong khi sản lượng tôm của tỉnh trên 72 ngàn tấn. Do có khó khăn về thị trường
xuất khẩu tôm, các nhà máy chế biến thủy sản tỏ ra dè dặt trong xuất khẩu, chỉ
làm những đơn hàng "dễ ăn" như cá phi-lê, nghêu đông, do đó giá trị xuất khẩu
không cao. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu thủy sản chỉ đạt 46,1 triệu USD, bằng
76,92% kế hoạch.
Nguồn:bannhanong.vietnetnam.net (tổng hợp 14/2/06)
|