Cà Mau:Đến năm 2010 đạt 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu tôm ?
Định hướng của ngành thủy sản Cà Mâu cho kế
hoạch 5 năm tới đã được đề ra từ đầu năm 2006.Đến năm
2010,tòan tỉnh phấn đấu đạt 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu
tôm.Chắc hẵn tỉnh CM có nhữgn kế sách vận dụng nội lực,tiềm năng sẵn
có trên cơ sở phát triển bền vững để vươn tới chỉ tiêu
này.
Với việc chiếm tới 30% về sản lượng và 20% về kim ngạch xuất
khẩu thủy sản cả nước, tỉnh cực Nam Cà Mau đang dẫn đầu toàn quốc về nuôi tôm -
một mặt hàng thủy sản xuất khẩu có giá trị.Năm 2005, diện tích nuôi tôm của Cà
Mau đạt tới 248.000ha trong tổng số gần 280.000ha diện tích nuôi trồng thủy sản
của tỉnh. Sản lượng tôm nuôi cũng chiếm tới 96.000 tấn trong tổng sản lượng trên
120.000 tấn. Con tôm cũng là sản phẩm chủ lực để thu về trên 509 triệu USD kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh.
Mục tiêu của tỉnh đến năm 2010 sẽ ổn định diện tích nuôi trồng
trong khoảng 282.400ha, trong đó tôm chiếm trên 240.800 ha, cho sản lượng khoảng
138.000 tấn và kim ngạch xuất khẩu đạt 1 tỉ USD, tiếp tục dẫn đầu cả nước. Để
đạt mục tiêu trên, tỉnh sẽ tiếp tục tăng cường đổi mới công nghệ chế biến, đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại để mở rộng
thị trường. Theo đó, Hiệp Hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản sẽ phối hợp với Hội
nghề cá triển khai chương trình gắn kết giữa doanh nghiệp với vùng nuôi thủy sản
để có nguồn nguyên liệu sạch cho chế biến xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu ngày càng
khắt khe của thị trường.
Tiếp tục phát triển nuôi tôm bền vững là một hướng đi quan
trọng của Cà Mau trong những năm tới.
TSKH Nguyễn Văn Hảo, viện trưởng Viện Nghiên cứu NTTS II về chủ
đề nuôi tôm hiệu quả và bền vững.Là một chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực
NTTS, ông đã nêu nhiều vấn đề về kế sách lâu dài này.
TheoTSKH Nguyễn Văn Hảo: Phải mở rộng diện tích nuôi nhưng giảm
mức độ thâm canh hóa. Hiệu quả trong hoạt động sản xuất thủy sản là làm sao
cho mức thu hoạch cao hơn mức đầu tư. Để tăng hiệu quả, người ta có xu hướng
thâm canh hóa. Phải tăng sản lượng, tăng lợi tức trên một đơn vị diện tích. Thâm
canh hóa thường không đi đôi với khái niệm bền vững, bởi thâm canh hoá đồng
nghĩa với việc phải khai thác đến mức cao nhất nguồn lợi tự nhiên bằng các giải
pháp kỹ thuật. Khai thác kiểu này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến sự cân bằng nguồn
lợi không phải chỉ ở thế hệ này mà có thể ở nhiều thế hệ sau. Trong khi đó, bền
vững có nghĩa là một hoạt động sản xuất không làm ảnh hưởng về mặt lâu dài,
không làm cho các thế hệ kế tiếp bị ảnh hưởng. Nghĩa là không làm cho các điều
kiện tự nhiên, yếu tố sinh thái, điều kiện tổng hợp nói chung có thay đổi.
Do vậy, phương thức nuôi trồng thủy sản hiệu quả bền vững đòi
hỏi mỗi việc đầu tư để đạt hiệu quả đều phải cân nhắc đến sự cân bằng của các
yếu tố sinh thái tự nhiên. Hiệu quả ở đây được hiểu trong tính chất tương đối,
mang tính cách chiến lược lâu dài, chứ không phải là hiệu quả trước mắt. Do đó,
chúng ta có thể phát triển thủy sản hiệu quả và bền vững trên quan điểm khai
thác có chừng mực, khai thác có cơ sở khoa học nguồn tài nguyên tương đối hạn
chế của chúng ta. Làm thế nào cho nguồn tài nguyên này có thể tái tạo lại, bù
đắp lại cái mà bằng các giải pháp kỹ thuật chúng ta đã khai thác nó.
Nếu xét về khái niệm bền vững thì mô hình nuôi tôm vùng chuyển
đổi (theo Nghị quyết 09 của Chính phủ) đã phát triển trong mấy năm qua là khá
bền vững. Về mặt nuôi trồng, đó là một mô hình quảng canh cải tiến, với hệ thống
canh tác mà trong đó người ta cân bằng đầu vào và đầu ra. Nghĩa là chỉ thả tôm
và tôm sử dụng thức ăn tự nhiên trong thủy vực, rồi thu hoạch tôm. Người dân sẽ
trồng một vụ lúa hoặc luân canh một lĩnh vực khác, để làm cho hệ sinh thái tái
cân bằng trở lại sau khi đã lấy đi một sản phẩm nhất định để đưa vào trong sản
lượng của con tôm. Thế nhưng xét trên khía cạnh hiệu quả tính trên một đơn vị
diện tích, chúng ta có thể làm hơn năng suất 170-200kg/ha/năm. Nghĩa là nếu xét
theo khía cạnh kinh tế thì mô hình này thực sự chưa hiệu quả, do năng suất còn
có thể đạt 10 tấn/ha/vụ. Như vậy, nhiều người sẽ không đồng ý với cách làm của
chúng ta trong quan điểm hiệu quả.
Vấn đề đặt ra là: Nếu chúng ta nhìn kết hợp giữa hai yếu tố bền
vững và hiệu quả, liệu có thể kéo dài bao lâu năng suất 10 tấn/ha/vụ? Sẽ kéo dài
bao lâu năng suất 200kg/ha/năm?
Theo ông Hảo, nếu chúng ta khai thác hợp lý, hướng dẫn nông dân
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tốt thì với năng suất 200kg/ha/năm, chúng ta
có thể duy trì một thời gian khá dài. Còn với năng suất 10 tấn/ha/vụ, nếu làm
nhiều vụ thì khó có thể duy trì được.
Cụ thể nhất, chúng ta nhìn vào vùng ven biển Nam, Trung bộ:
Tình hình nuôi tôm hiện nay cho thấy những dấu hiệu khởi đầu cho một sự thoái
hoá. Ở đây, do diện tích hẹp và điều kiện tự nhiên không được thuận lợi nên hình
thức nuôi chủ yếu là bán thâm canh và thâm canh. Do vậy, hiện tượng tôm chết kéo
dài và lan rộng đang diễn ra ở đây. Có thể chúng ta phải nghĩ về một hình thức
canh tác khác, ví dụ là luân canh hoặc nuôi một đối tượng khác để làm sao cho hệ
sinh thái này khôi phục lại giá trị ban đầu của nó.
Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cần làm tăng sản lượng
thì chúng ta cũng làm được. Nhưng khía cạnh tính bền vững của hoạt động này sẽ ra sao? Hệ
sinh thái ven biển là một hệ sinh thái rất nhạy cảm. Sự mất cân bằng của hệ sinh
thái này rất dễ xảy ra nếu không biết cách khai thác một cách hợp lý giữa cái
thu thập và cái bổ sung vào. Do đó, chúng ta phải có nhiều giải pháp đồng bộ và
phải có bước đi thích hợp cũng như căn cứ vào trình độ phát triển về kinh tế -
xã hội, về cơ sở hạ tầng, nhất là tính nhạy cảm của hệ sinh thái này để có bước
đi thích hợp cho hệ sinh thái ĐBSCL.
Nếu có những giải pháp tích cực, tăng cường công tác khuyến ngư
để làm sao tăng năng suất hiện có (170–200kg/ha/năm) lên 300 kg/ha/năm ở mô hình
quảng canh cải tiến trên vùng chuyển đổi. Nghĩa là tăng gần gấp đôi sản lượng
hiện có, đồng thời vẫn giữ được cân bằng, bảo đảm được tính nhạy cảm của hệ sinh
thái này. Đó sẽ là thành công rất lớn, và có như vậy mới có thể giải quyết được
việc phát triển hiệu quả và bền vững.
Hãy nhìn lại Thái Lan: Diện tích NTTS của Thái Lan không lớn -
không quá 50.000 ha. Vậy mà Thái Lan từng đứng đầu trong ngành sản xuất tôm thế
giới với sản lượng trên 200.000 tấn/năm. Cách đi của Thái Lan là không cho mở
rộng diện tích, nhưng thâm canh hóa trên một diện tích đã được xác định, được
tính toán cân bằng với hệ sinh thái chung.
Sở dĩ diện tích thâm canh hóa đó phải được quy hoạch và phải
cân đối với tổng diện tích tự nhiên vì có như vậy mới có thể làm sạch khối lượng
bẩn do mô hình nuôi tôm công nghiệp làm ra. Nếu không, việc nuôi tôm công nghiệp
sẽ làm thoái hóa bản thân môi trường ao của chính nó, đồng thời sẽ làm thoái hóa
và ô nhiễm môi trường xung quanh. Do đó, nếu duy trì được một tỷ lệ thích hợp
giữa hoạt động NTTS với điều kiện tự nhiên thì có thể duy trì được sự cân bằng.
Đó cũng là một khái niệm nuôi trồng thủy sản hiệu quả và bền vững.
Riêng chúng ta không làm như Thái Lan được vì việc phát triển
nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam có tính cách "quần chúng". Hàng triệu ngư dân,
nông dân đang tham gia vào hoạt động NTTS này với cơ sở hạ tầng chưa được phát
triển. Trình độ dân trí, các hoạt động dịch vụ hậu cần cho nghề nuôi thuỷ sản
của chúng ta cũng ở mức hạn chế. Với số lượng quá đông nông - ngư dân tham gia
hoạt động này, chúng ta không thể thu hẹp diện tích để thâm canh hóa được. Do
đó, bước đi của chúng ta phải khác với Thái Lan. Chúng ta phải chọn lựa hình
thức thứ hai: mở rộng diện tích nuôi nhưng phải giảm mức độ thâm canh hóa ở mô
hình này để tạo ra được sự cân bằng giữa khai thác và phục hồi của hệ sinh thái
ven biển. Đó là cách đi do điều kiện khách quan bắt buộc nhưng cũng là cách đi
khá khôn khéo của người Việt Nam.
Chính với mô hình này, nếu giải quyết tốt các vấn đề quản lý
thì sẽ cho ra sản phẩm sạch, sản phẩm sinh thái độc đáo duy nhất của Việt Nam
trên thị trường thế giới. Hiện nay, người nông dân chúng ta còn nghèo mà hoạt
động nuôi tôm mang lại hiệu quả kinh tế. Do vậy, với năng suất 300kg/ha/năm đã
là một nguồn lợi tức khá hấp dẫn. Mô hình này đầu tư rất thấp, chỉ có tiền con
giống và các hoạt động cải tạo là chính. Theo ông Hảo, đây là một mô
hình phù hợp trong điều kiện hiện nay của chúng ta.
Nguồn:TTXVN-CTOL-BANHANONG.COM
|