Kết quả nghiên cứu sử dụng rong sụn để xử lý ô nhiễm trong ao nuôi tôm
Phạm Văn Huyên - Phân viện Khoa học Vật liệu tại Nha Trang
Phương pháp nuôi thâm canh cho năng suất cao, song do mật độ nuôi cao, lượng
thức ăn cần cho tôm cũng nhiều thêm vì vậy lượng thức ăn dư thừa và các chất bài
tiết của tôm cũng lớn theo làm cho môi trường trong ao nuôi mau chóng bị ô
nhiễm.
Khoảng chục năm trở lại đây, người ta đã bước đầu thành công
trong việc xử lý ô nhiễm ưu dưỡng bằng rong biển (Chaiyakam, 1994; Noiry, 1999,
v.v). Các tác giả này đưa ra mô hình trồng rong câu kết hợp với loài hai mảnh
vỏ, có thể loại bỏ hầu hết các chất dinh dưỡng nitơ, phốt pho trong ao nuôi tôm,
kể cả phần đáy.
Tại Phân viện Khoa học Vật liệu Nha Trang, bước đầu cũng thu
được những kết quả ban đầu nghiên cứu sử dụng rong câu cước, chỉ vàng để xử lý.
Trong báo cáo này, chỉ đề cập đến kết quả nghiên cứu khả năng xử lý môi trường
ưu dưỡng của rong sụn trong các ao nuôi tôm sú chuyên canh.Nghiên cứu thử nghiệm
được tiến hành trong các bể kính có dung tích 50 lít. Chất đáy của ao nuôi tôm
sau khi thu hoạch được lấy về cho vào bể kính rồi cho nước biển đã lọc bỏ
phytoplankton tới 40 lít, tại 2 địa điểm Vạn Ninh Khánh Hoà và Ninh Hải (Ninh
Thuận). Rong sụn Kappaphycus alvarezii được trồng theo phương pháp giàn cố định
trên đáy ao sau khi thu hoạch tôm với mật độ ban đầu khoảng 1.600 - 2.000
g/m2.
Kết quả nghiên cứu cho thấy : rong sụn có khả năng hấp thụ một
lượng muối amôn rất lớn với tốc độ cao. Chỉ sau 24 giờ, hàm lượng amôn trong
nước từ 1.070,49 mg/l giảm xuống còn 830,10 mg/l đối với mật độ rong 400 g/m2,
tương ứng trên 20% Ðến ngày thứ 5 thì ở mọi mật độ rong thí nghiệm hàm lượng
amôn trong nước giảm đi hơn 80% và nó giữ ở mức đó cho tới khi kết thúc thí
nghiệm ngày thứ 10, hàm lượng amôn chỉ còn 10 % so với ngày đầu (hình 1). Trong
khi đó, ở bể đối chứng hàm lượng amôn trong nước tuy có giảm nhưng không đáng kể
tở 1.001,18 mg/l xuống 950,02 mg/l ở ngày thứ 7 và giữ ở mức đó cho tới khi kết
thúc thí nghiệm.
Ðối với phốt phát, sau 24 giờ rong sụn hấp thụ được từ 30 đến 60%. Mức
độ hấp thụ phốt phát tăng theo mật độ rong thả vào trong bể. Hiện tượng gia tăng
này có lẽ là do trùng với quá trình phân rã vật chất hữu cơ trong chất đáy tạo
ra phốt phát và giải phóng vào trong môi trường nước, cho nên tuy rong có hấp
thụ đi một lượng phốt phát trong nước, song lại được bổ sung ngay từ đáy, bởi
vậy ở một số bể thí nghiệm ta thấy là lượng phốt phát giảm đi không đáng kể
Ðối với thành phần nitrit, thì kết quả nghiên cứu cho thấy rong
sụn hầu như không hấp thụ. Còn nitrat trong nước thì rong sụn một phần với xu
thế gia tăng theo mật độ rong thả trong bể. Một điều đáng lưu ý khác là khả năng
hấp thụ nitơ tổng số của rong sụn cũng khá cao. Sau hai ngày đối với mật độ thả
rong từ 500 đến 700 g/m2 hàm lượng nitơ tổng số đã giảm xuống từ 50 - 70 % .
Xét qua hàm lượng ôxy hoà tan trong nước chúng ta thấy nhờ có
rong mà hàm lượng ôxy trong nước được gia tăng một cách đáng kể. ở bể có mật độ
rong 700 g/m2 thì hàm lượng ôxy trong nước tăng từ 5,28 mgO2/l ở ngày đầu lên
7,53 g/m2 sau 3 ngày. Từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 7, hàm lượng ôxy hoà tan đồng
loạt giảm với hàm lượng khá lớn. Nguyên nhân của sự giảm thiểu ôxy trong nước có
lẽ là do quá trình phân rã vật chất hữu cơ trong chất đáy gây nên. Hiện tượng
này rất phù hợp với nhận định trên khi phốt phát trong nước gia tăng đồng loạt ở
các bể vào thời điểm này. Việc giữ vững hàm lượng ôxy cao trong ao là điều quan
trọng, nó chính là nguồn thúc đẩy nhanh quá trình phân rã vật chất hữu cơ trong
chất đáy của ao, giải phóng nhanh các sản phẩm của quá trình phân rã trong chất
đáy, góp phần rút ngắn quá trình làm sạch môi trường ao nuôi.
Qua kết quả nghiên cứu trên cho ta thấy, rong sụn Kappaphycus
alvarezii có khả năng hấp thụ tốt các chất thải dinh dưỡng trong môi trường ưu
dưỡng. Nó có thể là một tác nhân trong vấn đề là sạch môi trường ao nuôi trồng
thuỷ sản. Nó gợi cho chúng ta một hướng làm vệ sinh ao nuôi thuỷ sản sau khi thu
hoạch bằng việc trồng xen canh rong sụn trong ao đìa trong thời gian chuyển vụ.
Vừa tạo thu nhập phụ cho người nông dân, vừa không gây ô nhiễm môi trường xung
quanh vùng nuôi trồng thuỷ sản.Từ những kết quả thu được có thể tóm lược như sau
:
- Trồng rong sụn trong ao sau khi thu hoạch tôm giúp ta xử lý
được chất đáy ao nuôi khỏi bị nhiễm bẩn bởi các chất thải tích luỹ trong quá
trình nuôi tôm có hiệu quả cao. Rong sụn có thể giúp cho quá trình phân huỷ các
chất hữu cơ trong chất đáy ao nhanh và hấp thụ các sản phẩm phân huỷ với tốc độ
cao góp phần tích cực vào việc xử lý, làm vệ sinh ao đìa, không gây ô nhiễm tới
vùng xung quanh.
- Trồng rong sụn trong ao nuôi tôm sau khi thu hoạch, ngoài
việc giúp ta xử lý ô nhiễm đáy ao, người nông dân còn có nguồn thu nhập phụ từ
rong sụn trong thời kỳ chuyển vụ. Gọi là nguồn thu phụ vì so với lợi nhuận thu
từ nuôi tôm cao hơn. Song nguồn thu từ trồng rong sụn hiện nay không phải là
nhỏ.
Nguồn
tin: Trích báo cáo tại Diễn đàn KHCN - SUMA |